Nàng hẹn gã ở quán “Thềm xưa” trên đường Nguyễn Cảnh Chân, Sài Gòn lúc 11g. Nàng bảo ai tới trước thì chờ chút xíu. Gã dặn: “Chị vào quán cứ thấy gã nào xấu trai, già nua ruồi đậu trên trán mà bịtrượt cẳng là tôi”.
Là đàn ông nên gã đã đến trước cùng Hùng, một bác sĩ tâm lý ở Hà Lan, người đã gặp nàng 14 năm trước ở Paris. Thú thật, nàng nổi tiếng đến rứa mà gã quá lơtơ mơ không biết mặt nàng. Vì vậy gã cần chàng bác sĩ mà gã quen ở thành phốDelft nổi tiếng với những bức họa của danh họa Hà Lan Vermeer và những ô cửa kính trong suốt tơ hơ những khung cảnh, cuộc sống hiện thực của cư dân này để“chỉ điểm” nàng.
Trong khi đó nàng chắc nghĩ rằng gã đương nhiên phải biết mặt nàng, ít nhất là qua ảnh, nên khỏi phải dặn thấy người đàn bà thế nào là chị.
Gã ngồi ngay cửa ra vào, một vài khuôn mặt trẻ trung xinh tươi váy vủng, áo sống tưng bừng diện lần lượt xuất hiện. Hùng đều nhoẻn mồm cười: “Không!”. Đồng hồ chỉ đúng 11g, một người đàn bà tóc ngắn, ăn mặc tuềnh toàng, chui chúi người đi vào. Hùng hất tay gã.
Và thế là linh tinh chuyện.
Xin thú thật một điều nữa, vì gã chưa bao giờ nghe nàng hát nên không thể nói đến giọng hát của nàng để tán, để gẫu, để linh tinh... bình. Gã tựthấy xấu hổ về mình khi một loạt khách, già có, trẻ có ở trong “Thềm xưa” thấy nàng thì chộn rộn xôn xao cảlên, nhiều người đến xin chữ ký. Một cô gái đương nhiên là dễ thương khi có được chữ ký của chị rồi cười toe toe: “Cô à, em sẽvề khoe với ba má em, chớ không ba má em lại không tin là em đã gặp cô – ca sĩ mà cả nhà em ngưỡng mộ”.
Chà - những lời khen có cánh!
Trước khi gã đến “Thềm xưa”, một cô bạn gái của gã bảo: “Anh nói giúp với Lệ Thu là em có thể nghe bài “Bản tình cuối” hơn chục lần một lúc. Và, LệThu là ca sĩ duy nhất mà em chờ live show”.
Khi cô bạn gái biết gã quê vài cục chưa hề nghe Lệ Thu hát và có lúc còn nhầm với Lệ Thu nhơ nhỡ tuổi bồ của một chàng thủy thủ tàu viễn dương mà có lần gã được nghe hát ởmột quán bar tại Paris thì cô bạn gái xừng cồ lên: “Chưa nghe hát thì đừng phỏng vấn!”.
Gã cười ngụy biện: “Anh quan tâm tới con người chị ấy thôi”, và vẫn quyết định không hoãn cuộc hẹn.
Bỗng từcái loa phát nhạc của “Thềm xưa” vang lên một tiếng hát. Nàng bật nói: “Ô, con bé nào hát thếnhỉ?”. Gã hiểu ra ngay rằng: khi thấy Lệ Thu xuất hiện chủ quán đã mở đĩa tiếng hát của chị để thay cho lời chào. Gã nhinh nhỉnh tai nghe rồi nhủ thầm: “Giọngsang trọng quá!”.
Vừa lúc một “cậu bồi bàn” trẻ, tay cầm khay đựng ly xuất hiện: “Thưa cô, cô là ca sĩ Lệ Thu?”. Nàng cười: “Đúng. Chính ả”. Cậu trai bèn hỏi về một CD của Lệ Thu số 46 gì đó và ngỏ lời xin. Nàng nói: “Cháu cho cô tên và địa chỉ, có được CD ấy sẽ gửi tặng”. Cậu trai nghe vậy hình như không tin được mọi sự lẹ làng đến thế, cứ đứng thừ ra với cái khay bất động. Gã bèn lấy cái bao giấy bọc đũa đưa cậu trai: “Cháu ghi vào đây!”. Cậu trai cầm bao giấy bọc đũa ra một góc, lúc sau trở lại với một tờgiấy vuông vức đưa cho Lệ Thu.
Sau khi Lệ Thu gác đũa trên tô bún bò, gã bảo: “Còn cục thịt đồ sộ...”. Nàng nói: “Thú thật với anh nhé. Tôi không ăn thịt”. “Còn nước giải khát?”. – “Tôi chỉ thích nước cóc”. Lệ Thu nâng cốc nước cóc xanh lè lên uống với tất cả sự thích thú. Và rồi nàng nheo nheo mắt nhòm gã: “Anh đâu có già, đâu có xấu trai! ”. Gã cười: “Cám ơn lời khen của chị!”. “Này, anh đừng phỏng vấn tôi nhé! Tôi ngại bị phỏng vấn lắm”. Gã nói: “Chịxem tôi có giấy bút gì đâu, nói chuyện vui thôi mà”.
Bây giờ thì gã mới nhìn kỹ nàng. Đôi mắt chả ra buồn chả ra vui, nhưng cái miệng thì luôn rõ tươi.
Thế rồi, nàng đưa chuyện: “Mẹ tôi người Hà Đông. Mẹ tôi để răng đen, bà cười cả hàm răng cùng cười đen nhánh. Bà là người đàn bà Bắc xưa rất ít nói và sống có khuôn phép. Tôi đã lấy người chồng đầu tiên có cuộc sống quy củ theo ý nguyện của bà. Hạnh phúc đã không đến. Tôi đành phải tự tìm chồng cho mình...
Người thứ hai xuất hiện, một lần anh chở tôi rong chơi, tôi buột miệng hát. Anh bảo: “Ơ, con bé này hát hay nhỉ”. Tôi rất sung sướng với lời khen “dọc đường” ấy của anh, vì anh đến với tôi, yêu tôi không phải vì tôi đã là một ca sĩ nổi tiếng mà vì bản thân con người tôi”.
Gã đã không phỏng vấn nàng theo yêu cầu của nàng mà chỉ hỏi những câu đời thường nhưhai người lần đầu quen nhau hỏi chuyện xã giao với nhau. Có lẽ vì thế mà nàng tỏ ra thoải mái với gã. Nàng bắt đầu tung ra những câu đùa dí dỏm, thậm chí tinh quái với gã. Bác sịHùng ghé tai gã nói nhỏ: Cuộc tình thứhai cũng đổ nốt. Tai nàng rõ thính, nàng phân bua ngay: “Tôi hiện sống một mình, nhưng không cô đơn. Không bao giờ cô đơn. Tôi có những đứa bạn là các cuốn sách. Tôi vùi mình, vùi... toàn thân trong sách. Yêu đương luôn có sựtưởng thế này mà lại thế kia, luôn có sự nhầm lẫn. Yêu một tỷ người rồi vẫn có thể nhầm lẫn”.
Đang chuyện tình tính tang đột nhiên nàng trở lại chuyện của người mẹ. Nàng kể: “Mẹ tôi tên Dưỡng, có người em trai tên Sinh. Mẹ tôi chả hát hò gì, nhưng cậu Sinh tôi hát hay lắm. Đặc biệt con trai của cậu tôi, tức là người em họ của tôi có tiếng hát phải nói tuyệt vời, phải nói là số1. Tôi mê hát bắt đầu từ mê giọng hát của cậu và con trai của cậu. Mẹ tôi biết tôi dính dáng đến chuyện ca hát, bà tỏra không thích. Nhưng tôi cứ theo con đường mà tôi lựa chọn cho đến tận bây giờ”.
Nàng quay qua hỏi chuyện anh bạn gã - một đấng đàn ông có bộrâu quai nón cứ sợi lông nào dài ra là xoăn, xoắn lại và nghía anh bạn gã hơi kỹ. Gã độp hỏi : “Bây giờở tuổi xồn xồn rồi, chị khoái cánh đàn ông nào?”. Nàng cười : “Rất đàn ông”. Rồi nàng gõ ngón tay lên trán: “Và rất trí tuệ”.
-Anh đi năm nào?
- Chị đi năm nào?
Giời ạ, thế là có một vùng... giời, vùng... giăng kỷniệm của những kẻ vượt biển tha hương ồng ộc về.
Qua câu chuyện lúc nảo, lúc nào của họ gã được biết năm 1979 sau một đêm diễn cùng đoàn Kim Cương nàng đã ra đi. Nàng bảo: “Thấy bạn bè rủ thì đi. Lên con thuyền nhỏ ở cầu Cỏ May gần Vũng Tàu, nơi trai gái thất tình thường nhẩy tự tử, ra khơi. Đến Malaysia, thuyền vỡ, tôi hất phăng xuống biển. Tôi nói với chủ thuyền: “Cứu mấy đứa nhỏ, đừng cứu tôi làm gì”. Chủ thuyền bảo: “Phải cứu chị để chị đi hát kiếm tiền, trả tiền cho tôi chớ”. Há ra nàng ra đi mà không có một cắc nào. Tiếng hát, danh tiếng của nàng lúc ấy chính là vật thế chấp.
Đột nhiên gã hỏi: “Chị có làm thơkhông?”. Nàng im lặng một lúc rồi nói: “Ít thôi”. Gã lại hỏi: “Chị có hay nước mắt không?”. Nàng thú thật: “Nhiều. Vì tôi là người nhiều trắc ẩn. Nhưng tôi khóc cho tôi thì ít, khóc cho người khác thì nhiều. Có lần tôi gặp một ông mù ngồi hát ở một bến sông. Ông mù đích thực là ca sĩ chuyên nghiệp như tôi vì ông chỉ sống bằng nghề hát, kiếm tiền bằng nghề hát. Tôi đã khóc khi nghe ông hát. Khóc vì thương cái kiếp một con người cũng kiếm sống bằng giọng hát nhưmình”.
Ca sĩ LệThu: Dại gì làm nô lệcho cái đẹp!
Sáng hôm sau gã tìm đến “tiệm nhạc” Thanh Nhân của nhà nhiếp ảnh Phong Quang ởphố Ngô Đức Kế, Sài Gòn tìm mua các CD của Lệ Thu. Gã tựnhủ phải nghe tiếng hát của nàng ca sĩ này với mục đích giản đơn: Để xem ra sao mà nhà thơ Đỗ Trung Quân, một tay rất sành âm nhạc, thậm chí sành hơn cả sành ăn viết trên một tờ báo mà gã vừa liếc đọc: “Thật khó hình dung trong đời sống âm nhạc của Sài Gòn thời ấy thiếu vắng giọng hát Lệ Thu. Nó “riêng một góc trời”, và, chớdại nghe vào buổi tối, bởi lẽ đêm càng khuya, tiếng hát ấy càng thổn thức, buồn bã nhưng lại là cái thổn thức hay đến chết người”.
Vợ chồng chủ tiệm nhạc Thanh Nhân hối hả đưa gã một loạt CD tiếng hát Lệ Thu. Bà chủ tiệm bảo: “Giọng Lệ Thu rất sang, đa số cánh trí thức Sài Gòn hồi đó rất mê”. Ông chủ tiệm bảo: “3 năm gần đây những CD mới của Lệ Thu có khác đi, nhiều người không thích. Nhưng tôi vừa nghe chị ấy hát ở Sài Gòn, chảhiểu vì điều gì mà tiếng hát của chị lấy lại hoàn toàn phong độnhư trước đây. Tôi lại thấy một Lệ Thu như mình từng ngưỡng mộ”.
Gã tự biết cái sự kém hiểu biết của mình nên lui lủi cầm sấp CD chuồn cho lẹ để về nghe. Và rồi gã đã đối diện với tiếng hát Lệ Thu, với “Chiếc lá cuối cùng”, “Thu hát cho người”, và đặc biệt với khúc dạo đầu “Bản tình cuối” của Ngô Thụy Miên...
Gã hoàn toàn bị tiếng hát Lệ Thu xình xịch kéo đi: “Dòng sông nào đưa người tình đi biền biệt”...
Gã phải rờn rợn người khi Lệ Thu ma quái nhảđôi chữ “biền biệt”.
Rồi khi Lệ Thu đắm mình với: “Một lần gặp gỡ như tình ngỡxa xưa” gã cảm nhận bị rơi tõm vào cõi xa xăm lắm. Tan biến hết béng rồi cái hình ảnh của nàng ca sĩ cùng cái giọng hát liêu trai của nàng ca sĩ mà nhõn còn cái gì đó mang mang mê mê văng vẳng. Gã chợt nhận thấy sự thoảng thốt trong sự văng vẳng ấy, có đó rồi rất mong manh có thểmất đó. Nhưng rất may đó chỉlà cảm giác chênh vênh bởi cái sự “mất đó” không hiện hữu.
Quả thật chỉ sau khi nghe tiếng hát của Lệ Thu gã mới hình dung đầy đủ nhất con người Lệ Thu mà gã vừa gặp ở “Thềm xưa”. Gã mới hiểu được giọt nước mắt mà nàng ta đã khóc cho người ca sĩ mù bên bến sông cũng là giọt nước mắt nàng ta đã không cho phép mình được nhỏ xuống khi chính mình cất lên tiếng hát. Bởi, gã nghĩ, tiếng hát của nàng ở một cõi nào đó xa xăm, xa hơn rất nhiều nơi con người rất đời thường của nàng tồn tại. Chính vì vậy gã chỉ đồng ý với nhà thơ Đỗ Trung Quân một nửa, đó là tiếng hát của nàng có buồn nhưng không hề bã, vì vậy nó sẽ còn mãi văng vẳng và dội về.
Nhớ lại hôm gặp nàng ở quán “Thềm xưa” nơi rập rìu tài tử giai nhân Sài Gòn, gã khó mà quên được hình ảnh nàng ăn mặc tuềnh toàng như người đàn bà tỉnh lẻ miền Tây vừa buốc xuống xe đò. Gã khoái cái hình ảnh quê quê ấy nên ngỏ lời mời nàng tới nhà gã dùng cơm.
Nàng bảo: “Tôi đặt anh một món tôi ưa thích nhé, đó là canh cua đồng!”.
Đúng hẹn, nàng đến nhà gã, vẫn vậy, ăn mặc rất tuềnh toàng. Món canh cua đồng với rau tập tàng và mướp được nàng để ý nhất.
Gã hỏi: “Được không?”.
Nàng cười như gái đôi mươi: “Rất ngon”.
Gã bảo: “Chị khen xã giao chứ gì?”.
Nàng ngưng cười, mắt hơi trợn lên... tinh nghịch: “Anh không biết đếm à, mình tôi “chơi” hết ba chén rồi...”.
Món thứ hai nàng rất thích, đó là đậu phụ non chiên. Món này phải chấm với mắm tôm mới đúng điệu, nhưng người ở Mỹ gần 30 năm quá đủthời gian để sợ mắm tôm rồi. Một món nữa nàng yêu cầu được ăn, đó là cá kho. Gã thừa nhận món này dởẹc, nàng không phản đối.
Nhưng điều bất ngờ với gã là nàng thoải mái “dậy” gã cách kho cá mà chảrõ tác giả là đầu bếp nào. Bí quyết mà nàng bật mí, đó là không cho đường, nước hàng vào cá mà đổ coca cola lưng lửng cá, đun lên. Lần đầu tiên gã nghe công thức này, tỏ ra ngạc nhiên. Nàng quả quyết: “Thử đi, không ngon không dành bản quyền”.
Rồi nàng kể niềm vui của nàng ở bên Mỹ sau những giờ đi hát là đọc sách và nấu ăn. Tài nấu ăn của nàngxin để dịp khác gã sẽ được chiêm nghiệm, thưởng thức, còn chuyện đọc sách thì gã đã phải ngạc nhiên vềnhững cuốn sách nàng ta say mê đọc, đặc biệt trong đó không ít sách chính trị, lịch sử.
Đạo diễn Thế Ngữ, ông chủ của nhà hàng gà vườn “Vợ thằng Đậu” cùng ăn cơm với nàng. Thế Ngữ bảo rất mê tiếng hát của nàng và thếlà đạo diễn Thế Ngữ nhiệt tình mời nàng đến nhà hàng gà vườn “Vợ thằng Đậu”... Nghe lời mời, nàng bật cười: “Thích thật, về VN gặp ai cũng mời cơm, suốt cả tháng toàn đi ăn cơm khách, người nhà phàn nàn bắt tôi một tuần phải ăn cơm nhà một bữa, nếu không... cấm cửa”.
Cơm xong, nàng đứng dậy dọn bát đũa. Nàng tỉ mẩn dồn thức ăn thừa lại cho gọn, nhặt xương ra. Gã chọc: “Nghệ sĩ diễn đó à? Cho diễn luôn!”. Nàng mởto đôi mắt, có thể nói luôn... đẹp ra: “Diễn gì? Niềm vui của tôi đó”.
Mấy bạn trẻ của gã vốn mê tiếng hát của nàng, đứng khoanh tay rất lễ phép xin được chụp hình với nàng. Nàng bảo: “Chờ chút”. Thếlà nàng mở bóp ra lấy son phấn quệt quệt trang điểm lại dung nhan. Nàng soi gương, khẽ cười.
Gã lại đùa: “Đàn bà đến chết vẫn là nô lệ cho cái đẹp”.
Nàng nhìn gã, đôi mắt vẫn mở to, nhưng lần này ánh mắt đầy tinh nghịch : “Dại gì làm nô lệcho cái đẹp mà suốt đời tôi chỉ muốn làm bà chủcủa cái đẹp...”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét